GDP tăng mạnh nhưng dịch COVID-19 ảnh hưởng tới triển vọng Q3/2021
GDP Q2/2021 vượt dự báo của chúng tôi là 44 điểm cơ bản. Mặc dù vậy, kết quả sơ bộ dường như vẫn chưa phản ánh đầy đủ tác động từ diễn biến phức tạp của đợt bùng phát COVID-19 này.
PMI tháng 6/2021 cho thấy tốc độ tăng trưởng hoạt động sản xuất của Việt Nam có thể sẽ chậm lại trong Q3/2021. Sản lượng và đơn đặt hàng mới đều giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ đợt bùng phát đầu tiên vào đầu năm 2020, trong khi số lượng việc làm giảm lần đầu tiên sau 5 tháng. Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 2,62% trong Q2/2021 từ 2,42% trong Q1/2021.
Do phạm vi hạn chế di chuyển ngày càng mở rộng, nhu cầu tiêu dùng đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Doanh số bán lẻ hàng hóa & dịch vụ sụt giảm tháng thứ 2 liên tiếp. Tốc độ tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm 2021 đã bị kéo xuống còn 4,9% so với cùng kỳ so với dự báo của chúng tôi trong năm 2021 là 5,5%.
Chỉ số CPI đang giảm với CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2021 ở mức thấp nhất trong cùng kỳ kể từ năm 2016 – điều này sẽ tiếp tục củng cố quan điểm về việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của NHNN trong những tháng tới.
Đầu tư công và giải ngân vốn FDI tăng ổn định, cùng với nhu cầu xuất khẩu mạnh mẽ, là những yếu tố chính thúc đẩy hoạt động kinh tế trong nửa cuối năm 2021.
Mặc dù vậy, dịch COVID-19 sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và đặc biệt là tiêu dùng. Nền kinh tế trong nước sẽ bị cản trở do tiếp tục áp dụng các biện pháp hạn chế di chuyển. HSC dự báo GDP sẽ chỉ tăng 5,16% so với cùng kỳ trong Q3/2021 trước khi tăng trở lại 7,06% so với cùng kỳ trong Q4/2021.

Cập nhật số liệu kinh tế vĩ mô
GDP tăng nhanh lên 6,61% so với cùng kỳ trong Q2/2021 từ mức điều chỉnh tăng 4,65% so với cùng kỳ trong Q1/2021. Cả 3 khu vực của nền kinh tế đều tăng trưởng. Trong đó:
- Khu vực công nghiệp và xây dựng dẫn đầu tăng 10,28% so với cùng kỳ so với tăng 6,33% so với cùng kỳ trong Q1/2021.
- Lạm phát chỉ tăng 2,41% so với cùng kỳ trong tháng 6/2021 từ tăng 2,9% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021 trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 2,62% trong Q2/2021 từ 2,42% trong Q1/2021.
- Trong 6 tháng đầu năm 2021, Việt Nam nhập siêu 1,47 tỷ USD (so với xuất siêu 5,86 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2020) trong khi vốn FDI giải ngân (9,24 tỷ USD) tăng 6,8% so với cùng kỳ.
- Do chịu ảnh hưởng mạnh nhất từ dịch COVID-19, doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ giảm 6,6% trong tháng 6/2021, kéo mức tăng trưởng từ đầu năm giảm xuống 4,9% so với cùng kỳ.
GDP
GDP Q2/2021 tăng mạnh 6,61% so với cùng kỳ một phần nhờ mức nền thấp
Nền kinh tế của Việt Nam tăng nhanh lên 6,61% so với cùng kỳ trong Q2/2021 từ mức điều chỉnh tăng 4,65% so với cùng kỳ trong Q1/2021, vượt dự báo của chúng tôi là tăng 6,17% so với cùng kỳ từ mức nền thấp trong Q2/2020, với mức tăng là 0,39% so với cùng kỳ.
Theo khu vực:
- Khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng 4,11% so với cùng kỳ so với tăng 3,51% so với cùng kỳ trong Q1/2021, cao hơn đáng kể so với tăng 1,8% so với cùng kỳ trong Q2/2020, nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi, năng suất lúa và cây trồng tốt hơn, nguồn cung lợn hơi được cải thiện (do dịch tả lợn châu Phi đã được kiểm soát) và kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm lâm sản khác tăng mạnh.
- Khu vực công nghiệp và xây dựng tiếp tục phục hồi mạnh mẽ khi tăng 10,28% so với cùng kỳ từ tăng 6,33% so với cùng kỳ trong Q1/2021 và tăng 1,69% so với cùng kỳ trong Q2/2020.
- Khu vực dịch vụ tăng 4,3% so với cùng kỳ so với tăng 3,62% so với cùng kỳ trong Q1/2021, mặc dù Việt Nam đang trải qua làn sóng bùng phát thứ 4 của dịch COVID-19 do mức nền thấp trong Q2/2020 (giảm 1,93% so với cùng kỳ) (Bảng 2).

Cụ thể, các lĩnh vực tăng trưởng cao (tăng trên 6% so với cùng kỳ) bao gồm ngành công nghiệp chế biến & chế tạo (tăng 13,84% so với cùng kỳ so với tăng 8,9% so với cùng kỳ trong Q1/2021), điện (tăng 11,9% so với cùng kỳ so với tăng 4,32% so với cùng kỳ trong Q1/2021), cung cấp nước (tăng 8,24% so với cùng kỳ so với tăng 5,38% so với cùng kỳ trong Q1/2021), tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (tăng 9,87% so với cùng kỳ so với tăng 8,67% so với cùng kỳ trong Q1/2021) , giáo dục và đào tạo (tăng 6,31% so với cùng kỳ so với tăng 6,04% so với cùng kỳ trong Q1/2021) và y tế (tăng 11,18% so với cùng kỳ so với tăng 9,57% so với cùng kỳ trong Q1/2021) (Bảng 3).
Các lĩnh vực tăng trưởng âm bao gồm khai khoáng (giảm 4,68% so với cùng kỳ so với giảm 8,54% so với cùng kỳ trong Q1/2021), đánh dấu quý giảm thứ 7 liên tiếp, dịch vụ lưu trú và ăn uống (giảm 4,47% so với cùng kỳ so với giảm 5,48% so với cùng kỳ trong Q1/2021), ghi nhận quý giảm thứ 6 liên tiếp, vận chuyển và kho bãi (giảm 0,11% so với cùng kỳ so với giảm 0,65% so với cùng kỳ trong Q1/2021) và nghệ thuật & giải trí (giảm 4,31% so với cùng kỳ so với giảm 6,05% so với cùng kỳ trong Q1/2021).
Về mặt tích cực, kinh doanh BĐS tiếp tục tăng trưởng trong 3 quý liên tiếp (tăng 4,18% so với cùng kỳ so với tăng 3,88% so với cùng kỳ trong Q1/2021).
Trong 6 tháng đầu năm 2021, nền kinh tế tăng 5,64% so với cùng kỳ, thấp hơn mục tiêu của Chính phủ là tăng trưởng 5,8%. Trong năm 2021, Chính phủ sẽ phấn đấu để tăng trưởng kinh tế đạt 6,5%, vượt mục tiêu chính thức là tăng trưởng 6% do Quốc hội đề ra. Trong bối cảnh số ca nhiễm COVID-19 gia tăng và tốc độ tiêm chủng chậm chạp, đây là một mục tiêu đầy tham vọng. HSC dự báo nền kinh tế sẽ tăng trưởng 5,89% cho năm 2021.

Lạm phát
CPI vừa phải ở mức thấp nhất kể từ tháng 3/2021
Trong tháng 6/2021, lạm phát tổng thể tăng 2,41% so với cùng kỳ so với tăng 2,9% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021 (Bảng 4). Kết quả này chủ yếu do chi phí giao thông tăng chậm lại (tăng 15,54% so với cùng kỳ so với tăng 21,24% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021) trong khi chi phí thực phẩm giảm tháng thứ 3 liên tiếp, giảm 2,01% so với cùng kỳ so với giảm 1,12% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021 (do giá thịt lợn bình ổn, giảm 2,0% so với tháng trước).
Mặc dù vậy, chi phí giao thông tăng so với cùng kỳ tháng thứ 3 liên tiếp từ mức nền thấp cùng kỳ năm ngoái và sẽ tiếp tục góp phần gây áp lực lên lạm phát trong nửa cuối năm 2021 (Bảng 5).
Trong khi đó, chi phí nhà ở và vật liệu xây dựng tiếp tục tăng 4,02% so với cùng kỳ so với tăng 2,93% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021 do chi phí điện nước và giá sắt thép tăng. Giá thép tăng 3,78% so với tháng trước và 15,28% so với cùng kỳ.


Lạm phát tổng thể và lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng lần lượt là 1,47% và 0,87% so với cùng kỳ, mức thấp nhất kể từ năm 2016 (Bảng 6) và thấp hơn nhiều so với mục tiêu tăng 4% của Chính phủ.
Từ đó, dự báo lạm phát bình quân năm 2021 đạt 3,2% của chúng tôi là tương đối thận trọng. Ngoài ra, HSC dự báo lạm phát bình quân sẽ duy trì ở mức dưới 4% trong năm 2022 và 2023 (lần lượt là 3,5% và 3,0%). Do lạm phát được kiểm soát, chúng tôi kỳ vọng NHNN sẽ duy trì chính sách tiền tệ phù hợp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong phần còn lại của năm.

Giá trị sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng chậm lại còn 6,8% so với cùng kỳ
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng chậm lại 6,8% so với cùng kỳ và 0,5% so với tháng trước trong tháng 6/2021, sau khi tăng 11,8% so với cùng kỳ và 1,6% so với tháng trước trong tháng 5/2021. Điều này là do hoạt động sản xuất tăng chậm lại sau khi dịch COVID-19 bùng phát. Chỉ số công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,1% so với cùng kỳ và 0,3% so với tháng trước trong tháng 6/2021 so với tăng 14,4% so với cùng kỳ và 2,6% so với tháng trước trong tháng 5/2021 (Bảng 7).

Trong khi số liệu của Tổng cục Thống kê chưa phản ánh đầy đủ tác động từ diễn biến dịch COVID-19 bùng phát gần đây khiến một số hoạt động sản xuất bị gián đoạn, thì ngược lại, chỉ số PMI của Markit là 44,1 vào tháng 6/2021, giảm mạnh so với mức 53,1 vào tháng 5/2021 kết thúc giai đoạn 6 tháng liên tiếp hoạt động sản xuất tăng trưởng (Bảng 7).
Chỉ số PMI mới nhất cũng là mức thấp nhất trong 13 tháng do các biện pháp phong tỏa và đóng cửa công ty tạm thời khi toàn quốc phải đối mặt với làn sóng bùng phát của các ca COVID-19 mới gần đây.
Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều giảm mạnh nhất kể từ đợt bùng phát đầu tiên vào đầu năm 2020, trong khi số lượng việc làm giảm lần đầu tiên sau 5 tháng. Mặc dù vậy, đợt bùng phát COVID-19 dự kiến sẽ được kiểm soát và nhiều hoạt động sẽ trở lại bình thường trong Q3/2021.

Trong số các phân ngành sản xuất chính, tốc độ tăng trưởng chậm lại đối với linh kiện điện tử (tăng 5,3% so với cùng kỳ so với tăng 23,0% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), thiết bị truyền thông (giảm 0,19% so với cùng kỳ so với tăng 17,5% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), điện tử tiêu dùng (giảm 11,4% so với cùng kỳ so với tăng 28,5% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), dệt may (tăng 27,6% so với cùng kỳ từ tăng 40,3% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021) và giày dép (tăng 19,7% so với cùng kỳ so với tăng 21,2% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021) (Bảng 8).
Nhờ nhu cầu toàn cầu phục hồi và mức nền thấp trong năm 2020, trong 6 tháng đầu năm 2021, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 9,3% so với cùng kỳ (so với tăng 2,8% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2020 và tăng 9,5% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2019), trong khi ngành công nghiệp chế biến và chế tạo tăng 11,6% so với cùng kỳ (so với tăng 4,6% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2020). Mặc dù vậy, ngành khai khoáng giảm 6% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2021 so với giảm 7,9% trong 6 tháng đầu năm 2020, khiến tăng trưởng chung của hoạt động công nghiệp bị thu hẹp.
Thương mại
Hoạt động thương mại chậm lại do hiệu ứng từ mức nền thấp giảm dần
Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 6/2021 (26,5 tỷ USD) tăng 17,3% so với cùng kỳ, chậm lại so với tăng 36,6% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021 (Bảng 9). Các nguyên nhân chính khiến tăng trưởng chung chậm lại là máy tính và sản phẩm điện tử (tăng 1,8% so với cùng kỳ so với tăng 14,6% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), điện thoại di động (giảm 9,5% so với cùng kỳ so với tăng 22,5% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), giày dép (tăng 38,9% so với cùng kỳ so với tăng 44,0% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), hàng dệt may (tăng 13,7% so với cùng kỳ so với tăng 36,4% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), máy móc & thiết bị (tăng 20,5% so với cùng kỳ so với tăng 48,0% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021) và sắt thép (tăng 128% so với cùng kỳ so với tăng 239,3% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021).


Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu (27,5 tỷ USD) tăng 33,5% so với cùng kỳ, chậm lại so với tăng 57,9% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021 (Bảng 10). Nguyên nhân chính khiến tốc độ tăng trưởng chậm lại là điện thoại các loại và linh kiện (tăng 25,2% so với cùng kỳ so với tăng 88,3% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), máy tính và sản phẩm điện tử (tăng 7,2% so với cùng kỳ so với tăng 29,3% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), máy móc & thiết bị (tăng 35,2% so với cùng kỳ so với tăng 67,8% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021), ô tô (tăng 121% so với cùng kỳ so với tăng 209,9% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021) và vải (tăng 38,1% so với cùng kỳ so với tăng 62,6% so với cùng kỳ trong tháng 5/2021).
Kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu tăng trưởng chậm lại cũng do hiệu ứng mức nền thấp giảm dần, khi kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu giảm lần lượt 12,4% và 22,4% so với cùng kỳ trong tháng 5/2020 và tăng trở lại lần lượt 5,4% và 5,9% so với cùng kỳ vào tháng 6/2020. Mặc dù vậy, so với tháng trước, kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng 1,2%, trong khi nhập khẩu giảm 2,7%.
Trong 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu (157,6 tỷ USD) và kim ngạch nhập khẩu (159,1 tỷ USD) tăng lần lượt 28,4% và 36,1% so với cùng kỳ so với tăng 0,2% so với cùng kỳ và giảm 3,3% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2020. Trong 5 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường chính: Mỹ (44,9 tỷ USD), Trung Quốc (24,4 tỷ USD) và EU (19,3 tỷ USD) tăng lần lượt 42,6%, 24,0% và 17,4% so với cùng kỳ nhờ nhu cầu cải thiện sau khi các nước này tiếp tục đẩy mạnh triển khai tiêm chủng vắc-xin.
Trong tháng 6/2021, Việt Nam nhập siêu ước tính là 1 tỷ USD, đưa nhập siêu lũy kế 6 tháng đầu năm 2021 lên 1,5 tỷ USD so với xuất siêu 5,9 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2020. Để đạt được dự báo thặng dư thương mại 16,6 tỷ USD trong năm 2021 (so với thặng dư 20 tỷ USD trong năm 2020) của chúng tôi (Mời xem: Điều chỉnh dự báo thương mại; xu hướng trái chiều, ngày 6/7/2021, HSC), hoạt động xuất khẩu sẽ cần phải bắt kịp hoạt động nhập khẩu trong phần còn lại của năm.
Đầu tư
FDI giải ngân mạnh mẽ nhưng đầu tư công giảm so với cùng kỳ
Trong 6 tháng đầu năm 2021, FDI đăng ký và thực hiện ước tính lần lượt đạt 15,27 tỷ USD (giảm 2,6% so với cùng kỳ) và 9,24 tỷ USD (tăng 6,8% so với cùng kỳ) (Bảng 11).
Về FDI giải ngân, ngành công nghiệp chế biến & chế tạo (6,65 tỷ USD) chiếm 72%, hoạt động kinh doanh BĐS (1,28 tỷ USD) chiếm 13,8% và lĩnh sản xuất, phân phối điện, khí đốt (691 triệu USD) chiếm 7,5%.


Trong khi đó, đối với FDI đăng ký, ngành công nghiệp chế biến & chế tạo (6,65 tỷ USD) chiếm 45,7%, hoạt động kinh doanh BĐS (1,2 tỷ USD) chiếm 7,5% và lĩnh sản xuất, phân phối điện, khí đốt (5,3 tỷ USD) chiếm 35%.
Điều đáng khích lệ là vốn FDI đăng ký mới (9,55 tỷ USD) tăng 13,2% so với cùng kỳ, tập trung vào các dự án năng lượng, bao gồm các nhà máy nhiệt điện LNG do Singapore phát triển 3,1 tỷ USD (Long An 1 và 2) ở phía Nam tỉnh Long An, Nhà máy nhiệt điện 1,3 tỷ USD do Nhật Bản phát triển (Ô Môn 2) ở phía Nam thành phố Cần Thơ và nhà máy pin mặt trời 498 triệu USD do Hồng Kông phát triển ở tỉnh Quảng Ninh.
Vốn bổ sung cho các dự án hiện hữu (4,12 tỷ USD) tăng 10,6% so với cùng kỳ. Một trong những dự án quan trọng là đầu tư bổ sung 750 triệu USD vào nhà máy LG Display Hải Phòng vào tháng 2/2021 (tổng vốn đầu tư vào dự án này hiện là 3,25 tỷ USD).
Mặc dù vậy, hạn chế di chuyển tiếp tục cản trở các NĐT trong việc ra quyết định đầu tư mới. Góp vốn mua cổ phần (1,6 tỷ USD) giảm 54,3% so với cùng kỳ.
Trong tháng 6/2021, đầu tư công đạt 38,4 nghìn tỷ đồng (giảm 4,5% so với cùng kỳ và tăng 12,0% so với tháng trước) (Bảng 12). Trong 6 tháng đầu năm 2021, đầu tư (171,9 tỷ đồng) tương đương 36,8% kế hoạch năm 2021 của Chính phủ (477,3 tỷ đồng) và tăng 10,2% so với cùng kỳ. so với tăng 20,5% so với cùng kỳ. trong 6 tháng đầu năm 2020.
Trong khi đó, tính đến ngày 15/6/2021, thặng dư ngân sách nhà nước lên tới 80,6 nghìn tỷ đồng so với thâm hụt 343,7 nghìn tỷ đồng theo kế hoạch năm 2021 (“Quyết định 1927” của Bộ Tài chính). Điều này phản ánh mức thu ngân sách tăng (775 nghìn tỷ đồng, tương đương 57,7% kế hoạch năm 2021) so với chi ngân sách (694,4 nghìn tỷ đồng, tương đương 42,2% kế hoạch năm 2021).
Doanh số bán lẻ hàng hóa & dịch vụ
Doanh số bán lẻ hàng hóa & dịch vụ giảm 6,6% so với cùng kỳ trong tháng 6/2021, kéo mức tăng trưởng từ đầu năm còn 4,9% so với cùng kỳ


Trong tháng 6/2021, doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 381,9 nghìn tỷ đồng, giảm 6,6% so với cùng kỳ và 2,0% so với tháng trước, đưa giá trị lũy kế đạt 2.463,8 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm 2021 (tăng 4,9% so với cùng kỳ so với giảm 5,8% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2020) (Bảng 13).
Doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ sụt giảm chủ yếu do doanh số bán lẻ hàng hóa (330,1 nghìn tỷ đồng, giảm 0,3% so với tháng trước), doanh số bán lẻ dịch vụ lưu trú và ăn uống (26 nghìn tỷ đồng, giảm 20% so với tháng trước) và dịch vụ du lịch (183 tỷ đồng, giảm 49,2% so với tháng trước).
Do hầu như không thực hiện các chuyến bay thương mại kể từ tháng 4/2020, lượng khách du lịch quốc tế tiếp tục giảm 18% so với cùng kỳ trong tháng 6/2021 xuống còn 7,2 nghìn lượt (Bảng 14); những hành khách đến Việt Nam chủ yếu là các chuyên gia nước ngoài và lao động tay nghề cao. Trung Quốc (2,6 nghìn lượt), Hàn Quốc (1,5 nghìn lượt), Nhật Bản (582 lượt), Mỹ (278 lượt) và Châu Âu (790 lượt) hầu như không có khách du lịch đến Việt Nam trong tháng 6/2021. Trong 6 tháng đầu năm 2021, lượng khách du lịch đạt 88,2 nghìn lượt, giảm 97,6% so với cùng kỳ (so với giảm 55,8% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2020).

Bên cạnh việc hạn chế các chuyến bay quốc tế đã diễn ra trong thời gian dài, việc thắt chặt hạn chế di chuyển trong nước do làn sóng thứ 4 bùng phát là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng trong tháng 5/2021. Do các biện phấp hạn chế di chuyển, số lượng hành khách vận chuyển trong nước giảm 13,1% so với tháng trước trong tháng 6/2021 (Bảng 15).
Trước tình hình diễn biến bất ngờ của làn sóng COVID 19, chìa khóa duy nhất cho sự hồi sinh của các ngành du lịch tại Việt Nam sẽ phụ thuộc trực tiếp vào các lệnh hạn chế đi lại của người dân. Theo các chuyên gia chứng khoán nhận định, điều này sẽ không xảy ra trước quý 4 của năm 2021.
Dự báo kinh tế vĩ mô của HSC

Nguồn: HSC